Thursday, April 28, 2022

SỬ DỤNG MẬT CHÚ MẬT TÔNG TRONG PHONG THỦY . BÀI 1.A

 


PHONG THỦY.

Phong : Là Gió.
Thủy :Là nước.
Hỏa :Là Lửa.
Là tinh túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ Nam chuyển hướng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa".
Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khícủa chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ nước ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hư hại rất nhiều Long mạch.Nhưng ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ thành Đại La.Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc.
HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người.Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường hợp như thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập được Nhân -Quả,được Trời -Đất cho hưởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được.
Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai.
Ngoài tất cả những kiến thức về Phong Thủy - Địa lý đã nêu ở phần trên , nếu chỉ thực hiện như thế cũng chỉ đạt kết quả khoảng 60% mà thôi. Các cụ ngày xưa có dạy : " Thày Địa lý : Trên thông Thiên văn , dưới tường Địa lý, giữa thông muôn loài " . Nếu chưa có khả năng " Thông muôn loài " như vậy thì dù : "Trên thông Thiên văn , dưới tường Địa lý " cũng chỉ đạt được những kết quả khiêm tốn khi tác nghiệp.
Ngày xưa , các Thày Địa lý thường hiểu biết bao gồm đủ cả : NHO - Y - LÝ - SỐ . Khi thực hành Địa lý, ngoài việc sử dụng 36 tầng la kinh, các Thày Địa lý thường phải sử dụng rất nhiều Kinh, Chú để phụ trợ cho công việc của mình. các Thày Địa lý thường sử dụng những Kin, Chú, Bùa của Đạo giáo khi tác pháp.
Nhìn chung, Đạo giáo có 3 trường phái:
Đạo học chủ trương tu tánh thiên về vấn đề giác ngộ, quay về với nội tâm tìm sự thanh tĩnh để đạt Đạo, tương đương phương pháp Đốn ngộ của Phật giáo. Đại diện cho trường phái này là Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử (khoảng thế kỷ thứ 4 trước CN) viết Xung Hư chân kinh, Quan Doãn Tử viết Văn Thủy Chân Kinh, Trần Hi Di tức Trần Đoàn Lão Tổ (khoảng 900, đầu thời Tống) là người đã sáng lập khoa Tử vi.
Tiên học (còn gọi là Đơn Đạo) khác với Đạo học, là phương pháp tiệm tu, đi từ thấp đến cao, từ thô tới tinh, từ hữu vi đến vô vi; có mục tiêu tu hành phản lão hoàn đồng, trường sinh bất lão tức là chủ trương tu tạo nên một xác thân tráng kiện, dần dần tiến đến thân tâm an lạc và cuối cùng mở được tuệ giác và chung cuộc vẫn đi đến chỗ Thiên Nhân hiệp nhất, huyền đồng cùng Trời Đất. Phái Tiên Học cũng thờ Lão Tử nhưng có 3 vị đứng đầu là Đông Hoa Đế Quân Lý Thiết Quải (sống vào thời nhà Hán) tu ở núi Côn Lôn; Chung Ly Quyền (cuối thời Đông Hán), đứng đầu Bát Tiên; Lữ Đồng Tân là đồ đệ của Hán Chung Ly.
Tiên Học có các tông phái:
- Nam Tông: gồm có Lưu Thao được Chung Ly Quyền truyền Đạo năm 911; Trương Bá Đoan (đời Tống) sáng lập ra Nam Tông.
- Bắc Tông: còn gọi là Toàn Chân Phái, giáo chủ là Vương Trùng Dương, người Hàm Dương, có 7 đệ tử: Khưu Xứ Cơ, Lưu Xứ Huyền, Đàm Xứ Đoan, Mã Ngọc, Hách Đại Thông, Vương Xứ Nhất, Tôn Bất Nhị. Doãn Chân Nhân, người giảng Hoàng Cực hợp Tích Chứng Đạo Tiên Kinh và Liêu Dương Điện Vấn Đáp sau tập hợp thành Tính Mệnh Khuê Chỉ là học trò của Khưu Xứ Cơ
- Đông phái: do Lục Tiềm Hư sáng lập năm 1567 đời Minh Mục Tông.
- Tây phái: do Lý Hàm Hư đời ThanhHàm Phong sáng lập (1851)
- Trung phái: do Lý Đạo Thuần sáng lập đời Nguyên, đề cao chữ Trung.
- Trương Tam Phong phái: (cuối nhà Nguyên, đầu triều Minh).
Ngoài ra, dưới thời nhà Tấn, có Kim Đan Đạo do một ông quan là Cát Hồng khởi xướng chủ trương tu Tiên bằng hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại dưỡng là dùng kim đan gọi là thuốc trường sinh luyện bằng các khoáng chất như thần sa, vàng…. Nội tu là rèn luyện thân thể bằng phép dưỡng sinh, tịnh luyện tinh – khí – thần để "hườn Hư".
Đạo giáo nhân gian hay Đạo giáo phù thủy do Trương Đạo Lăng, người nước Bái đến núi Tứ Xuyên tu luyện, là cháu 8 đời của Trương Lương thời Tam Quốc (đời Hán – 206 trước CN và 220 sau CN) sáng lập "Đạo 5 đấu gạo" (Ngũ đấu mễ đạo: ai muốn vào Đạo thì phải nộp 5 đấu gạo), thờ Lão Tử tôn xưng là Thái Thượng Lão Quân dùng kinh kệ, bùa chú, phương thuật, tế lễ… để thu hút tín đồ, được hậu thế phong là Trương Thiên Sư.
Thông thường các Thày Địa lý đều tinh thông một hay nhiều Pháp của Tiên gia như : Lỗ ban pháp ,Côn Lôn pháp, Mao Sơn pháp , Hà Dương mạn lạo bí lục ( các vu thuật của người dân  tộc trên miền thượng du Bắc Bộ), Liễu Linh Nhi ( là 1 pháp bí truyền của Kim Anh phái),  Bắc Thiên Sư Đạo 北天師道 , Bạch Gia Đạo 帛家道 ,Chân Đại Đạo 真大道 ,Chính Nhất Đạo 正一道 ,Lâu Quán Đạo 樓觀道 ,Lý Gia Đạo 李家道 ,Nam Thiên Sư Đạo 南天師道, Ngoại Đan Đạo 外丹道 ,Ngũ Đấu Mễ Đạo 五斗米道 ,Nội Đan Đạo 內丹道 ,Thái Bình Đạo 太平道 ,Thái Nhất Đạo 太一道 ,Toàn Chân Đạo 全真道 ,Tịnh Minh Đạo 淨明道 ,Diên Hống Phái 鉛汞派 , Du Sơn Phái 游山派   ,Đan Đỉnh Phái 丹鼎派 ,Đông Hoa Phái 東華派 ,Kim Sa Phái 金砂派 ,Linh Bảo Phái 靈寶派 ,Long Môn Phái 龍門派 ,Nam Vô Phái 南無派 ,Ngộ Tiên Phái 遇仙派 ,Phù Lục Phái 符籙派 ,Thanh Vi Phái 清微派,Thần Tiêu Phái 神霄派 ,Thiên Tâm Phái 天心派 ,Thượng Thanh Phái 派上清,Tử Dương Phái 紫陽派 ,Tùy Sơn Phái 隨山派 ,Bắc Tông 北宗,Các Tạo Tông 閣皂宗, Kim Đan Phái Nam Tông 金丹派南宗
Long Hổ Tông 龍虎宗,Mao Sơn Tông 茅山宗, Nam Bắc Tông 南北宗,Nam Tông 南宗......
Khi sử dụng các Pháp theo Đạo giáo như đã nói ở trên , người Thày phải thực hiện rất nhiều nghi thức tỷ mỷ, rối rắm và....bí truyền. 
Đạo Pháp đều có hệ thống lý luận, cách thức tập luyện và bí quyết riêng của mình, nhưng các môn này đều sử dụng phương thức chung là truyền miệng. Không lưu lại văn tự và cấm lưu truyền cho người ngoài, do lưu  truyền bí ẩn nên bí quyết không nói miệng mà bằng ẩn ngữ thay thế, nếu  như không có vị thầy cao tay chỉ dẫn, thì thật khó có thể hóa giải, thật  khó có thể đắc đạo nổi. Thông qua, căn cứ theo căn số của từng người mà truyền thụ, người học  pháp có thể dùng chú ngữ để trị bệnh, trừ ác dương cao cái thiện, khử tà trấn sát và đuổi âm hộ pháp, Người có đạo hạnh cao thâm hình thức bùa tùy tâm để làm việc, khi đạt điểm cao nhất của của bùa chú là có thể làm cho lá bùa ứng biến như thần, có hiệu quả tức khắc với bất cứ trường hợp  nào mà không cần lập đàn mà lại không hề hao tổn nguyên khí. Tu luyện đạo pháp nhiều năm có thể lĩnh hội được công dụng của bùa 
chú, có thể trừ tà, phá sát, hộ thân.

No comments:

Post a Comment

Featured Post

Hà Tùng - Đạo Y dạy bạn ngủ, bất kể bạn có thức khuya hay không, nhất định phải xem!

   Thức khuya là chuyện rất bình thường, nhưng thường xuyên thức khuya sẽ gây ảnh hưởng xấu đến cơ thể. Khi đọc bài viết này, có lẽ sẽ giúp ...

Bài đăng phổ biến